LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA (Bậc Sơ Thiện)

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH CA

 
I. Thân thế và đời sống của Thái Tử trước khi xuất gia
1. Thân thế
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tên là Sĩ-Đạt-Ta (Siddhatta) hiệu là Thích Ca (Sakya) chi nhánh của họ Kiều-Tất-La một đại quý tộc ở Ấn Độ. Ngài là con vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu Ma- Gia (Màyà) nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) ở phía bắc thành Ba-La-Nại (Benares) ngày nay.
2. Ngày sinh, nơi sinh, tướng mạo của Thái tử
Theo cổ tục của Ấn Độ, người đàn bà trươc khi sinh sẽ trở về nhà cha mẹ để sinh. Hoàng hậu Ma-Gia trên đường về quê mẹ, trong lúc đi dạo cảnh vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) thì hạ sanh Thái Tử dưới gốc cây Vô ưu  lúc mặt trời mọc nhằm ngày trăng tròn tháng 2 Ấn Độ tức ngày rằm tháng tư âm lịch năm 624 trước Tây lịch.
 Thái tử sinh ra có 32 tướng tốt. Nhà tướng số A-Tư-Đà (Asita) nói rằng nếu làm vua thì Ngài là bậc chuyển luân Thánh Vương,  nếu xuất gia sẽ thành bậc Đại Giác (Phật).
3. Đời sống của Thái tử
Sau khi sinh Thái Tử được 7 ngày thì Hoàng hâu Ma-Gia từ trần, vua Tịnh Phạn giao Thái tử cho bà dì là Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề (Maha Pajàpati) nuôi nấng. Lớn lên, vua Tịnh Phạn mời các vị giáo sư, võ sư danh tiếng dạy Thái tử cả văn lẫn võ. Các vị thầy đều bái phục sự thông minh phi thường của Thái tử. Ngài dửng dưng với cảnh sống xa hoa trong cung điện nguy nga tráng lệ, nét mặt Thái tử luôn trầm tư, mặc tưởng, để lộ nỗi buồn sâu xa kín đáo và luôn khiêm tốn với mọi người. Biết được tâm trạng của con, vua cha hết sức lo lắng và tìm mọi cách để làm khuây  khoả  Thái tử.  Năm 17 tuổi vua cha cưới công chúa Da-Du-Đà-La (Yosodhara) con của vua Thiện Giác (Suppabuddha) cho Thái tử, sau khi Ngài đã thắng tất cả các thanh niên dự cuộc tỉ thí theo cổ tục Ấn Độ lúc bấy giờ. Vợ Thái tử sinh được một hoàng nam tên là La-Hầu-La (Ràhula).
 II. Thái tử tiếp xúc với đời và xuất gia.
1. Thái tử tiếp xúc với đời
Sau nhiều lần yêu cầu khẩn thiết, vua cha mới miễn cưỡng cho phép Thái tử du ngoạn ngoại thành để có dịp tiếp xúc với cuộc sống đời thường. Qua các lần thăm viếng, Thái tử đã suy tư về các sự thật  sanh, lão, bệnh, tử và hình ảnh thanh thoát của vị sa môn.
2. Thái Tử xuất gia
Qua cuộc hỏi đáp ngắn với vị sa môn, Thái tử chợt hiểu rằng muốn cứu khổ chúng sanh thì tự thân phải xuất gia tầm đạo. Vào lúc nửa đêm ngày 15 tháng 2 (8 tháng 2 âm lịch), sau khi nhìn lần cuối vợ con yêu dấu đang say nồng trong giấc ngủ, Thái tử cùng nô bộc Xa-Nặc (Channa) cưỡi con tuấn mã Kiền-Trắc (Kantaka) vượt thành ra đi tìm con đường giải thoát cho mình và chúng sinh. Năm ấy Ngài vừa tròn 19 tuổi (theo Bắc truyền).
III. Con đường tu tập – Thành đạo – Nhập diệt
1. Con đương tu tập của Thái Tử
Sau  khi chia tay Xa-Nặc, đổi áo cẩm bào lấy áo hoại sắc bên bờ sông  Anoma, Thái tử dấn thân vào con đường tìm đạo. Qua 5 năm tìm thầy học đạo, Ngài nắm bắt rất nhanh giáo nghĩa các đạo sư Ngài tìm gặp nhưng chưa có đạo nào hướng đến giải thoát chân chính, Ngài nghĩ phải tự minh chuyên tu mới tìm ra chánh đạo.
Ngài đến rừng Uu Lâu Tần Loa phía nam núi Tượng Đầu bên dòng sông Ni Liên Thuyền tu khổ hạnh với 5 người bạn là Kiều Trần Như (Kodanna), Ác-Bệ (Asaji), Mahanam (Mahanama), Bạt-Đề (Bhadhya), Bà-Phả (Vappa)(1).           Ngài tu khổ hạnh trong 6 năm (nhịn ăn, ép xác), thân thể suy kiệt nên té bất tỉnh. Khi tỉnh lại, Ngài nghiệm rằng tự hành hạ thân xác quá đáng không ích gì cho việc cầu đạo giải thoát. Ngài bèn ăn uống trở lại, 5 người bạn đồng tu tưởng lầm Ngài thối chí nên bỏ đi.
2. Thái tử thiền định và thành đạo
Nhờ dùng bát sữa do nàng Tu-xà-Đề đem dâng, sức lực Ngài dần hồi phục. Xuống dòng sông ni Liên Thuyền tắm rửa xong,  Ngài trải thảm cỏ nơi gốc cây Bồ Đề (Bodhi) ngồi tĩnh lặng tham thiền trong 49 ngày. Với định lực cao cường, Ngài đã chiến thắng nội ma, ngoại chướng. Đêm mùng 8 tháng chạp âm lịch Ngài đã chứng được Tam Minh. Đến lúc sao mai vừa mọc, Ngài hoàn toàn giác ngộ thành PHẬT hiệu là THÍCH CA MÂU NI.
3. Đức Phật truyền đạo – Nhập diệt.
a. Đức Phật truyền đạo
Sau khi quán chiếu về căn cơ của chúng sanh, Ngài nói bài pháp đầu tiên “Tứ diệu Đế” cho 5 anh em ông Kiều Trần Như tại Vườn Nai (Lộc Uyển). Nghe xong tôn giả Kiều Trần Như chứng quả Tu Đà Hoàn. Từ đó Tăng đoàn đầu tiên được hình thành  và 3 ngôi báu: Phật – Pháp – Tăng được xác lập. Trong quá trình hoằng dương chánh pháp, hệ thống  Tăng  đoàn không ngừng phát triển rộng khắp trên nhiều vương quốc trong lãnh thổ Ân Độ xưa mặc dù Ngài và Tăng đoàn gặp rất nhiều chướng duyên. Trong hàng vạn đệ tử  giữ giới đức trang nghiêm của Phật  có 10 vị đứng đầu trên 10 phẩm hạnh khác nhau:
1. Ma Ha Ca Diếp – đầu đà đệ nhất.
2. Xá Lợi Phất – trí tuệ đệ nhất.
3. Mục Kiền Liên – thần thông đệ nhất.
4. Phú Lâu Na – thuyết pháp đệ nhất.
5. Uu Ba Ly – trì giới đệ nhất.
6. Ca Chiên Diên – luận nghị đệ nhất.
7. A Nan Đà – đa văn đệ nhất.
8. A Na Luật – thiên nhãn đệ nhất.
9. Tu Bồ Đề – giải không đệ nhất.
10.  La Hầu La – mật hạnh đệ nhất.
Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là người phụ nữ đầu tiên được Đức Thế Tôn cho xuất gia, ông Tu Bạt Đà La (Subhadda) hơn 80 tuổi là đệ tử sau cùng của Phật trước khi Ngài nhập diệt.
b. Năm thời nói kinh của Đức Phật
Trong cuộc đời hoằng hoá 49 năm của Đức Phật, tuỳ theo căn cơ của mọi người mà Ngài thuyết pháp giáo hoá. Kinh pháp của Phật nói ra, các đệ tử kết tập chia thành 5 thời:
+ Thời thứ nhất: Phật nói kinh Hoa Nghiêm 21 ngày theo sự kiền thỉnh của Chư Thiên.
+ Thời thứ hai: Phật nói kinh A Hàm 12 năm cho quần chúng để tự độ.
+ Thời thứ ba: Phật nói kinh Phương Đẳng 8 năm  nhằm tự độ và độ tha.
+ Thời thứ tư: Phật nói kinh Bát Nhã 22 năm, Ngài chỉ bày đạo lý chân không của vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng vô tướng của các pháp.
+ Thời thứ năm: Phật nói kinh Pháp Hoa và Niết Bàn 8 năm.
Ngài nói rõ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là vì một nguyên nhân lớn: “khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”.
c. Đức Phật nhập diệt
Ngày rằm tháng 2, Ngài đến xứ Câu Ly vào rừng Xa Nại cho đệ tử treo võng  giữa 2 cây Sa la song thọ, Ngài giảng giải, khuyên dạy hàng đệ tử lần cuối cùng rồi an nhiên đi vào Niết Bàn. Ngài trụ thế 80 năm sau 49 năm hoá độ chúng sanh.
Cuộc đời của Đức Phật là tấm gương sáng chói về lòng thương vô bờ bến đối với chúng sanh. Với đức hy sinh cao cả, dũng lực phi thường, Ngài nay đây mai đó thực hiện tâm nguyện
Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du
Kỳ vị sanh tử sự
Giáo hoá độ xuân thu”
(một bát cơm ngàn nhà, một thân đi vạn dặm; vì vấn đề sanh tử; giáo hoá độ ngày qua).
Ngài xứng đáng được muôn loại chúng sanh kính ngưỡng, tán thán công đức và mãi mãi nhớ ơn.
 
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Sống trong nhung lụa nhưng tâm trạng Thái tử như thế nào?
2. Sự việc nào chứng tỏ Thái tử văn võ song toàn?
3. Nỗi lòng của Thái tử sau 3 lần thăm viếng ngoại thành?
4. Lý do trực tiếp nào để Thái tử xuất gia?
5. Thái tử nghĩ gì sau nhiều lần hỏi đạo?
6. Hãy nêu diễn biến về đêm thành đạo của Ngài.
7. Hãy nêu  đặc điểm nổi bậc của 10 đại đệ tử Phật.
8. Người ta bảo cuộc đời của Đức Phật gắn liền với các loại cây, hãy giải thích điều ấy.
 
Chú thích:
(1): Thập Lịch Ca Diếp
 

Bài đọc thêm:
KHÁI LƯỢC VỀ ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN LIÊN HIỆP QUỐC

(Năm 2008 tại Việt Nam)

I. KHÁI LƯỢC
Đại lễ Tam hợp Đức Phật còn gọi là Đại lễ VESAK bắt nguồn từ tín ngưỡng Phật Giáo Ấn Độ. Đạo Phật Ấn Độ xem tháng Vesak (tên gọi tháng tư của năm theo lịch Ấn Độ) là tháng linh thiêng, bởi vì ngày trăng tròn của tháng nầy đã diễn ra 3 sự kiện trùng lặp gắn với thân thế sự nghiệp của Đức Phật (Phật Đản, Phật Thành Đạo, Phật nhập Niết Bàn). Đại lễ Phật Đản diễn ra vào ngày trăng tròn tháng Vesak tương đương với tháng 5 dương lịch.
Tại Việt Nam, đại lễ Phật Đản được tổ chức trọng thể vào ngày Rằm tháng 4  âm lịch.
II. ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN LIÊN HIỆP QUỐC
Ngày 15/12/1999, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc khoá 54 đã chính thức công nhận Đại lễ Tam hợp  Đức Phật hay Đại lễ Vesak là ngày lễ hội văn hoá, tôn giáo quốc tế của Liên Hiệp Quốc, được tổ chức hàng năm tại trụ sở  và các trung tâm của Liên Hiệp Quốc từ năm 2000 trở đi.
Đại lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc đầu tiên được tổ chức tại trụ sở Liên Hiệp Quốc (New York) năm 2000 có 34 quốc gia tham dự, … Năm 2007 tổ chức tại Thái Lan với sự tham gia của 500 đoàn đoàn đại biểu từ 62 nước.
III. ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN LIÊN HIỆP QUỐC TẠI VIỆT NAM
– Thời gian: từ 13 đến 17/5/2008.
– Địa điểm: tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình – Hà Nội.
– Thành phần tham dự:  70 quốc gia với 3500 đại biểu.
– Kết quả: Đại lễ thành công viên mãn. Ngoài ra tại các tỉnh thành đều tổ chức Đại lễ hết sức hoành tráng.
 
 

Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.